Thu ngân sách nhiều nhất từ lĩnh vực nào?
Chiều 30/5, tiếp tục Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, Quốc hội khóa XV nghe trình bày các báo cáo về quyết toán ngân sách nhà nước năm 2022.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc |
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước năm 2022, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, năm 2022, tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động rất nhanh, phức tạp, khó lường. Xung đột vũ trang tại Nga – Ukraine kéo dài, đã tác động đến thị trường tài chính, hoạt động đầu tư và thương mại toàn cầu.
Trong nước, dịch Covid-19 đã được kiểm soát tốt nhưng nền kinh tế phát sinh nhiều khó khăn, thách thức từ những biến động bên ngoài; hoạt động sản xuất, kinh doanh của một số lĩnh vực còn rất khó khăn, thiên tai, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp,… tác động không thuận lợi đến khả năng phục hồi, phát triển kinh tế sau đại dịch.
Trong bối cảnh đó, các chính sách tài khóa đã được điều hành chủ động, tích cực, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân. Vì vậy, cùng với các chính sách vĩ mô khác, nền kinh tế đã phục hồi tích cực; kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng GDP đạt 8,02%; quốc phòng, an ninh được giữ vững; an sinh xã hội được đảm bảo; tín nhiệm quốc gia được nâng lên.
Về quyết toán thu ngân sách nhà nước, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cho hay, dự toán thu ngân sách nhà nước là 1.413.408 tỷ đồng; quyết toán là 1.820.310 tỷ đồng, tăng 406.902 tỷ đồng (28,8%) so với dự toán. Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt 19,1% GDP, riêng từ thuế và phí đạt 15,16% GDP.
Kết quả thực hiện một số lĩnh vực, khoản thu chủ yếu như sau: Thứ nhất, thu nội địa, dự toán là 1.178.408 tỷ đồng; quyết toán là 1.447.915 tỷ đồng, tăng 269.507 tỷ đồng (22,9%) so với dự toán, tỷ trọng thu nội địa trên tổng thu ngân sách nhà nước đạt 79,5%.
Cụ thể, kết quả một số nhiệm vụ thu chủ yếu như sau: Thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước: Dự toán là 154.000 tỷ đồng; quyết toán là 174.448 tỷ đồng, tăng 20.448 tỷ đồng (13,3%) so với dự toán.
Thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể thu từ dầu thô): Dự toán là 205.931 tỷ đồng; quyết toán là 243.447 tỷ đồng, tăng 37.516 tỷ đồng (18,2%) so với dự toán. Thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh: Dự toán là 252.722 tỷ đồng; quyết toán là 307.613 tỷ đồng, tăng 54.891 tỷ đồng (21,7%) so với dự toán.
Thu thuế thu nhập cá nhân: Dự toán là 118.075 tỷ đồng; quyết toán là 162.790 tỷ đồng, tăng 44.715 tỷ đồng (37,9%) so với dự toán. Các khoản thu từ nhà, đất: Dự toán là 162.610 tỷ đồng, quyết toán là 255.386 tỷ đồng, tăng 92.776 tỷ đồng (57,1%) so với dự toán.
Thứ hai, thu dầu thô: Dự toán là 28.200 tỷ đồng; quyết toán là 78.137 tỷ đồng, tăng 49.937 tỷ đồng (177,1%) so với dự toán, chủ yếu do giá dầu và sản lượng khai thác, xuất khẩu tăng so với kế hoạch.
Thứ ba, thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu: Dự toán là 199.000 tỷ đồng; quyết toán là 285.898 tỷ đồng, tăng 86.898 tỷ đồng (43,7%) so với dự toán do tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu vượt kế hoạch và tăng cao so với năm 2021. Số hoàn thuế giá trị gia tăng theo thực tế phát sinh là 150.729 tỷ đồng, giảm 2.271 tỷ đồng so với dự toán.
Về quyết toán chi ngân sách nhà nước: Dự toán là 1.855.641 tỷ đồng; quyết toán là 1.750.790 tỷ đồng, giảm 104.851 tỷ đồng (5,7%) so với dự toán; trong đó quyết toán chi ngân sách Trung ương là 651.408 tỷ đồng, bằng 86,7% so với dự toán; quyết toán chi ngân sách địa phương là 1.099.382 tỷ đồng, bằng 99,6% so với dự toán.
Về quyết toán chi ngân sách nhà nước, ông Hồ Đức Phớc nêu, chi thường xuyên: Dự toán là 1.111.194 tỷ đồng; quyết toán là 1.034.250 tỷ đồng, giảm 76.944 tỷ đồng (6,9%) so với dự toán do một số nhiệm vụ không triển khai được phải hủy dự toán, một số nhiệm vụ không đủ điều kiện quyết toán phải thu hồi nộp ngân sách nhà nước, một số nội dung được chuyển nguồn sang năm sau để thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Luật Ngân sách nhà nướ
Tỷ trọng chi thường xuyên bằng 59% tổng chi ngân sách nhà nước (1.034.250 tỷ đồng/1.750.790 tỷ đồng) theo đúng định hướng Nghị quyết số 23/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 – 2025 và Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững.
Bên cạnh đó, về chi đầu tư phát triển: Dự toán là 597.147 tỷ đồng; quyết toán là 615.640 tỷ đồng, tăng 18.493 tỷ đồng (3,1%) so với dự toán; chi trả nợ lãi: Dự toán là 103.700 tỷ đồng; quyết toán là 96.084 tỷ đồng, giảm 7.616 tỷ đồng (7,3%) so với dự toán.
Về bội chi ngân sách nhà nước: Dự toán bội chi ngân sách nhà nước là 442.233 tỷ đồng, trong đó: dự toán bội chi theo Nghị quyết số 34/2021/QH15 là 372.900 tỷ đồng, bằng 4% GDP; quyết toán là 293.313 tỷ đồng, bằng 3,07% GDP thực hiện, giảm 148.920 tỷ đồng (33,7%) so với dự toán;
Về tổng mức vay của ngân sách nhà nước: Dự toán là 642.019 tỷ đồng; quyết toán là 488.406 tỷ đồng, giảm 153.613 tỷ đồng (23,9%) so với dự toán; Về chỉ tiêu nợ công: Tổng số nợ công là 3.557.668 tỷ đồng, bằng 37,26% GDP.
Đồng bộ nhiều giải pháp quản lý, điều hành thu, chi ngân sách
Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính, thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo triển khai quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp quản lý, điều hành thu, chi ngân sách, góp phần tích cực vào việc hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội.
Trong đó, thực hiện các chính sách tài khóa hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế xã hội của Quốc hội trong đó có Nghị quyết số 43/2022/QH15, Chính phủ đã ban hành các chính sách miễn, giảm gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất đã hỗ trợ trực tiếp giúp các doanh nghiệp giảm các nghĩa vụ tài chính, gia tăng thanh khoản, giảm chi phí giá vốn, vượt qua khó khăn, duy trì, ổn định, mở rộng sản xuất kinh doanh, đóng góp vào quá trình phục hồi và phát triển của nền kinh tế.
Các chính sách đã huy động kịp thời mọi nguồn lực, từ ngân sách nhà nước, nguồn huy động đóng góp, viện trợ từ các tổ chức và cá nhân trong, ngoài nước và các nguồn lực tài chính khác, đảm bảo nguồn lực phòng chống dịch, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, duy trì nguồn lực cho đầu tư phát triển, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Công tác quản lý thu ngân sách nhà nước được thực hiện quyết liệt dẫn đến kết quả thu ngân sách nhà nước không những bù đắp số giảm thu do thực hiện các chính sách miễn, giảm thuế hỗ trợ cho doanh nghiệp và người dân (chưa được tính trong dự toán) mà còn vượt so với dự toán, qua đó đảm bảo nguồn lực, tăng chi đầu tư phát triển; thực hiện các nhiệm vụ cấp bách phát sinh. Đồng thời, tiếp tục tích lũy dành nguồn thực hiện cải cách chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW của Trung ương.
Chi ngân sách nhà nước được quản lý chặt chẽ, cắt giảm các nhiệm vụ chi chưa thực sự cần thiết, chậm triển khai; triệt để tiết kiệm, giảm chi thường xuyên, tăng chi đầu tư. Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, nâng cao kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, quản lý, sử dụng tài sản công.
Đảm bảo cân đối ngân sách các cấp; giảm bội chi ngân sách nhà nước so với dự toán, nợ công giảm và thấp hơn mức trần ngưỡng cảnh báo quy định tại Nghị quyết Quốc hội, tiếp tục cơ cấu bền vững nợ công; hệ số tín nhiệm quốc gia được nâng lên.
Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại một số hạn chế: Công tác dự báo, tính toán nhu cầu hỗ trợ của một số chính sách trong quá trình xây dựng chưa lường hết được khó khăn, vướng mắc, thách thức trong tổ chức triển khai thực hiện dẫn đến hiệu quả chưa cao.
Cùng với đó, công tác triển khai chính sách, pháp luật, dự toán ngân sách nhà nước có nơi, có lúc còn hạn chế, bất cập. Việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc chưa kịp thời ảnh hưởng đến hiệu quả, tiến độ thực hiện các nhiệm vụ ngân sách nhà nước.
Một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương giải ngân đầu tư công chậm do các nguyên nhân: Việc phân bổ, giao kế hoạch vốn còn chậm; dự án khởi công mới đang triển khai thủ tục lập, thẩm định và phê duyệt thiết kế, dự toán, tổ chức đấu thầu xây lắp nên chưa có khối lượng làm cơ sở thực hiện giải ngân; khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, một số hộ dân vẫn còn khiếu nại, khiếu kiện, chưa nhận tiền bồi thường và không đồng ý bàn giao mặt bằng sạch để các đơn vị thi công triển khai thực hiện nên không có khối lượng để thanh toán.
“Việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương tài chính chưa nghiêm; tình trạng sai phạm trong việc đấu thầu, mua sắm; thất thoát, lãng phí vẫn còn xảy ra tại một số cơ quan, đơn vị; số chi chuyển nguồn tiếp tục phát sinh lớn; một số Bộ, cơ quan trung ương, địa phương lập, xét duyệt, gửi quyết toán ngân sách nhà nước chậm so với thời gian quy định” – Bộ trưởng Bộ Tài chính nhấn mạnh.